Máy xóa nám, hình xăm Laser SHINE PEEL Hàn Quốc


Laser Shine Peel Hàn Quốc với 3 đầu trị liệu: đầu Zoom, đầu chuẩn trực và đầu vi điểm.
Xuất xứ: Hàn Quốc


Còn hàng

Tổng quan về Laser Er:YAG

Có nhiều loại Laser phân đoạn xâm lấn khác nhau, tuy nhiên cho tới nay laser Er: YAG được xem là kết quả lâm sàng tốt hơn cả, thời gian hồi phục nhanh và có ít tác dụng phụ hơn so với các loại laser phân đoạn truyền thống trước đây. Gần đây laser Er: YAG ở chế độ xung dài không xâm lấn, và chế độ SMOOTH có tác dụng tái cấu trúc các sợi collagen và tân tạo collagen mới có tác dụng trong xóa các nếp nhăn và trẻ hóa da.

Laser phân đoạn có xâm lấn tác động đến nhú bì hiệu quả trong điều trị các tổn thương da do ánh sáng, xóa các nếp nhăn và sẹo lõm. Tuy nhiên quá trình tái tạo thượng bì kéo dài, một số trường hợp ban đỏ kéo dài trong nhiều tháng, đáng quan tâm hơn là tình trạng mất sắc tố vĩnh viễn chiếm 20% sau khi nhiều lần điều trị bằng laser CO2.

Nước hấp thu năng lượng Laser Er:YAG gấp hơn 10 lần so với laser CO2 nên Laser Er:YAG kiểm soát chính xác hơn khi bóc tách bề mặt. Ngoài ra với chế độ VSP (Variable Square Pulse) cho phép thay đổi độ rộng sung và tần số phát xung, nên tạo ra hiệu ứng từ chế độ xâm lấn lạnh cho đến hiệu ứng nhiệt sâu ở trong mô, nên cho phép điều trị có hiệu quả nếp nhăn sâu, vì vậy với VSP cho phép mở rộng cho nhiều chỉ định điều trị.

Tương tác giữa Laser Er:YAG và tổ chức mô

Có 3 loại laser phân đoạn Er:YAG, Er:YSGG (or Er,Cr:YSGG) và laser CO2 mà chromophore là nước (da chiếm hơn 70% là nước).

Er:YAG 2940 nm nước hấp thụ năng lượng cao nhất, Er,Cr:YSGG 2700 nm đỉnh hấp thu nước nhỏ hơn 3 lần. CO2 10600 nm có đỉnh hấp nước bằng 1/10 Er:YAG nên ít phù hợp cho bóc tách bề mặt.

Mức độ phân tán nhiệt của tia laser phụ thuộc vào từng loại laser khác nhau.

Mức độ xâm lấn tùy thuộc vào loại laser. Hệ số hấp thụ nước của Er,Cr:YSGG (100 mm-1) and Er:YAG (300 mm-1) và CO2 (30 mm-1). Chính vì vậy nhiệt độ làm nóng lên do hấp thu nhiệt của Er:YAG 3m, Er,Cr:YSGG 10µm và CO2 30µm.

MGia nhiệt trực tiếp là mô hấp thụ năng lượng trực tiếp. Gia nhiệt gián tiếp bỡi sự phân tán nhiệt.

Một yếu tố quan trọng để gia tăng nhiệt gián tiếp là độ rộng xung, với độ rộng xung ngắn thì quá trình bóc bay xảy ra trước khi khuyết tán nhiệt ra các mô xung quanh, ngược lại với độ rộng xung lớn khi quá trình gia tăng nhiệt trước khi xảy ra hiện tượng bóc tách.

Độ rộng xung lớn có đủ thời gian để khuyết tán nhiệt sâu hơn

Xung laser dài hơn thời TRT của biểu bì (ước tính khoảng từ 10-100 msec), lớp biểu bì có đủ thời gian làm mát bằng khuyết tán nhiệt sâu xuông mô dưới da. Do đó nhiệt độ cần để bóc tách cần cao hơn nhiều. Và nếu trong cùng một lúc mà cung cấp năng lượng trong khoảng thời gian ngắn TRT da (ước tính trong phạm vi 500 msec) thì da không có thời gian làm mát trong thời gian phát xung. Do đó năng lượng laser được cung cấp phần lớn tạo ra sự gia tăng nhiệt độ ở lớp bì nhú.

Liên quan giữa độ sâu phân tán nhiệt của mô và độ rộng xung.

Hình trên cho thấy độ sâu nhiệt (dT) tại đó mà da được nóng lên 650C, khi laser được sử dụng mức năng lượng gần ngưỡng xâm lấn. Độ sâu của nhiệt được tính từ độ sâu phân tán nhiệt, xd = (4D tp)1/2. Trong đó tp là độ rộng xung và D là hằng số khuyết tán của da là 1,1 x 10-7 m2/s.

Độ sâu tính toán của lớp biến đổi nhiệt, dT, như là một hàm của mật độ năng lượng cho chế độ thời gian xung MSP.

Trong laser xâm lấn thường chúng ta hay nói về chế độ không xâm lấn và 3 chế độ xâm lấn.

Chế độ không xâm lấn, dT tăng khi mật độ năng lượng tăng, khi đạt đến ngưỡng cắt bỏ. sau đó dT giảm dần theo theo mật độ năng lượng: từ cắt nóng, sang ấm và cuối cùng là cắt lạnh.

Các thông số được khuyến cáo cho 9 phác đồ điều trị của VSP Er: YAG.

Lưu ý tham số này chỉ để tham khảo trên thực tế tùy thuộc vào từng bệnh nhân như loại da, vị trí điều trị và độ hydrate hóa ở da và các thông số khác.

Mức độ sâu xâm lấn là độ sâu tối thiểu đạt được kết quả điều trị. Dù điều trị xóa nhăn, các tổn thương da do ánh sáng, hoặc săn chắc lớp collagen. Tái tạo bề mặt được thưc hiện hoàn toàn khi tổn thương da được loại bỏ, hoặc đến khi có điểm xuất huyết điều này cho thấy đã tới lớp bì nhú. Ở lớp bì nhú hiệu quả điều trị tối ưu và ít có các tác dụng phụ. Tiếp tục điều trị sâu hơn xuống dưới bì nhú kết quả điều trị đạt được tối thiểu nhưng có nhiều các tác dụng phụ thậm chí tăng lên theo cấp số nhân.

Ngưỡng xâm lấn cũng như độ sâu nhiêt tối đa tương ứng với các độ rộng xung của VSP Er:YAG hiện nay đang có. Xung ở chế dộ V-SMOOTH được tạo ra khác so với SMOOTH nên ngưỡng xâm lấn cũng như độ sâu nhiệt tối đa tuôn theo sự phụ thuộc khác vào thời lượng xung so với SMOOTH.

Các khảo sát về mô học của SMOOTH và V-SMOOTH cho thấy rằng độ sâu nhiệt đạt đến trên 100µm dưới màng đáy. Trên lâm sàng sự gia tăng nhiệt độ này của mô cho kết quả rõ rệt và về lâu dài trong kết quả cải thiện nếp nhăn và sẹo.

Er:YAG Fractional

Phân đoạn chùm tia VPS Er:YAG là một kỷ thuật mới trong điều trị, có hiệu quả tương tự như laser Er:YAG truyền thống, nhưng quá trình phục hồi nhanh hơn, bệnh nhân cần ít thời gian nghỉ dưỡng, và hạn chế tối đa các tác dụng phụ. Dùng một handpice đặc biệt người ta phân nhỏ chùm tia laser phát ra thành nhiều tia vi điểm và khi điều trị trên da tạo ra rất nhiều các vi vết thương trên bề mặt da, và lớp biểu bì nhanh chóng được tái tạo bỡi vùng da lành xung quanh.

Trái ngược với Er:YAG truyền thống thì phân đoạn tạo các vết thương vi điểm

Với handpice phân đoạn thì người ta có thể thực hiện 9 chế độ điều trị của VPS Er:YAG chỉ có sự khác nhau là chùm tia laser đã được xử lý phân đoạn thành nhiều tia vi điểm.

Chế độ phân đoạn về cơ bản giống như chế độ VPS nhưng khác nhau là người ta phân đoạn chùm tia thanh nhiều tia vi điểm.

Sơ đồ của các chế độ vi phân khác nhau. Laser truyền thống tạo ra bốc bay một phần tổ chức mô và mô xung quanh là vùng quang đông (a). Có 2 phương pháp vi phân khác nhau: có xâm lấn (aFP) và không xâm lấn (nFP). nFP tạo ra nhiều vùng điều trị MTZ (Microscopic Treatment Zone): vùng điều trị vi thể) bao gồm mô quang đông. Mặc dù bị tổn thương do nhiệt, tính toàn vẹn vật lý của da vẫn còn nguyên (c). aFP làm bốc bay tổ chức, tạo ra nhiều MTZ bao gồm một vi kênh được bao bọc một lớp MEND (Micro-epidermal Necrotic Debris - các mảnh vỡ hoại tử kích thước nhỏ) và lớp ngoài cùng là hiện tượng quang đông (d). Sự khác biệt hơn nữa của các chế dộ vi phân thay đổi tùy theo dộ sâu của các MTZ, như vi phân bề mặt (b).

Có 2 kỷ thuật vi điểm: Phân doạn chùm tia laser và quyét.

Các kiểu chiếu tia laser phân đoạn.

Handpice phân đoạn chòm tia thành các nhiều tia cực nhỏ (vi điểm) và mật độ năng lượng của các tia laser phân đoạn này cũng tương tự như của chùm tia laser. Năng lượng của từng tia phân đoạn là một phần nhỏ của của tổng năng lượng xung.

Điển hình của kiểu đóng dấu là chùm tia phân đoạn thành các tia vi điểm thường mật độ năng lượng không tập trung, laser mềm.

Dùng tay cầm scan năng lượng được tập trung vào một điểm, và năng lượng vi điểm bằng năng lượng của toàn bộ chùm tia. Vì vậy mật độ năng lượng tập trung cao hơn và cho phép vùng điều trị sâu hơn. Và cho phép điều chỉnh được mật độ năng lượng, mật độ vùng điều trị, và kiểu scan.

Các kiểu Scan của chế độ hội tụ Er:YAG

TURBO MODE

Mức độ xâm lấn phụ thuộc chhủ yếu vào mật độ năng lượng, tuy nhiên cần mức độ xâm lấn sâu hơn người ta thực hiện chế dộ turbo là chồng xung trong khoảng thời gian cực ngắn tại một vị trí. Như vậy để đạt được độ sâu của sự xâm lấn người ta chọn lựa theo 2 cách: một là tăng mật độ năng lượng và chế độ turbo. Riêng dộ sâu nhiệt khuếch tán vẫn chủ yếu tùy thuộc vào độ rộng xung như trong chế độ xâm lấn.

Chế độ turbo tăng cường mức độ sâu xâm lấn.

Ở chế độ xâm lấn lạnh sử dụng turobo 3 thì độ sâu của sự xâm lấn (không phải độ sâu nhiệt) tăng gấp 3 lần so với chế độ xâm lấn cơ bản

Cùng mức độ xâm lấn thì sử dụng chế độ turbo có đường viền của kênh vi điểm sắc nét và rõ rệt hơn so với sử dụng chế độ chuẩn.

Chế độ turbo tạo ra các kênh vi thể có bờ và cạnh sắc nét hơn so với chế độ phát xung tiêu chuẩn với mức năng lượng cao hơn.

Lý do có sự khác biệt giữa 2 chế độ điều trị là do hiện tượng tán xạ được hình thành bỡi các mãnh vỡ mô được hình thành ở xung đơn với mức năng lượng cao.

Hiệu ứng tán xạ gây ra bỡi các mãnh vỡ mô bóc tách.

Sử dụng chùm tia với mức năng lượng cao hơn thì sự tán xạ xãy ra quanh các vi kênh, thường năng lượng tán xạ không gây ra xâm lấn, nhưng hiệu quả điều trị và tác dụng của năng lượng này không để xác định và không thể kiểm soát được. Khi mức năng lượng càng tăng cao hơn nữa thì hiện tượng này càng rõ nét hơn với các mãnh vỡ lớn.

Với chế độ turbo là các xung laser được chồng lên nhau trong khoảng thời gian cực ngắn thì giới hạn được hiện tượng tán xạ làm tổn thương quanh các vi kênh và các kênh được hình thành sắc nét hơn.

Chế độ TURBO cho phép người ta ứng dụng điều trị chế độ VSP Er:YAG linh hoạt hơn với chế độ phân đoạn cho phép người điều trị tiếp cận từ độ sâu lớp sừng đến lớp hạ bì như trong điều trị bằng laser Er:YAG truyền thống (không phân đoạn).

Er:YAG xâm lấn và không xâm lấn

Laser vi phân không xâm lấn (Non-ablative Fractional Photothermolysis: nFP):

- Năng lượng laser tạo kích thích đốt nóng lớp bì mà không gây bóc tách lớp thượng bì với nhiệt độ thấp (<70ºC).

- Collagen trong lớp bì chịu tác động của nhiệt sẽ co lại, sau đó 3-6 tháng có hiện tượng tạo mới collagen trong lớp bì.

- Tổn thương nhiệt này còn làm tăng sự biểu hiện của các protein sốc nhiệt, từ đó kích hoạt các tế bào gốc ở thượng bì tăng sinh, biệt hóa để thay thế các mô bị tổn thương, mô xơ, sẹo.

- Ở các vùng giải phẫu có nguy cơ sẹo (cổ, ngực, thân và tay) có thể điều trị được an toàn.

- Thông thường với việc tái tạo bề mặt bằng aFP, mô sẽ được bóc tách ở độ sâu 200-400µm sau nhiều pass điều trị. Bóc tách mô càng sâu sẽ có nguy cơ sẹo.

- Với nFP, có thể xâm nhập mô sâu hơn một cách an toàn mà không cần cắt bỏ toàn bộ lớp thượng bì và bì. Vì vậy, mô có thể được tái tạo an toàn đến độ sâu 1400µm.

- Các thiết bị nFP mới cung cấp hai bước sóng (1550nm, 1927nm) giữa quang phổ hồng ngoại để điều trị thương tổn sắc tố và thương tổn do ánh sáng mặt trời. Bước sóng 1927nm cho phép tái tạo bề mặt, loại bỏ sắc tố trong nám, tăng sắc tố, tổn thương da do ánh nắng, dày sừng ánh sáng.

Er:Glass 1550nm

Nhuộm nitro BlueTetrazolium được sử dụng để theo dõi các tổn thương do nhiệt. Thiếu màu xanh cho thấy tổn thương tế bào nhiệt. Các tổn thương được bởi Er: Glass 1550nm. Độ sâu và đường kính của MTZ thay đổi theo năng lượng, 40 mJ (a) so với 100 mJ (b).

- Về mặt mô học, một cột mô hoại tử, quang đông thường được quan sát trong da sau sau điều trị.

- Hàng rào bảo vệ da được bảo tồn trong nFP và lớp biểu bì bị tổn thương nhanh chóng được thay thế.

- Các khoang chứa các mảnh vụn hoại tử lớp thượng bì (MEND) trong lớp thượng bì được quan sát trong vòng 24 giờ sau điều trị.

- Cho phép loại bỏ có kiểm soát biểu bì và hạ bì, ví dụ, melanin và elastin.

- nFP rất phù hợp để điều trị các tổn thương sắc tố bề mặt.

- Tái tạo lại lớp hạ bì bị tổn thương có thể mất vài tuần và xảy ra mà không hình thành xơ hóa.

Mô học tại các thời điểm khác nhau khi điều trị nFP. Nhuộm H & E. Er:glass 1.550nm, 5 mJ / MTZ. (a) 1 giờ sau điều trị, có thể thấy một cột collagen biến tính (mũi tên đen) trong MTZ (viền đen). Toàn bộ lớp sừng vẫn còn nguyên. Không có viêm xâm nhập xung quanh MTZ. (b) Ngày 1 sau nFP. MTZ (viền màu đen) hình thành khoang chứa các mảnh vụn tế bào hoại tử (MENDs), (mũi tên đen), bao gồm các tế bào sừng bị tổn thương nhiệt, các melanin. Vệt sáng dưới thượng bì có thể thấy rõ từ 1 giờ sau khi điều trị và kéo dài đến 5 ngày (sao). Phần hạ bì của MTZ xuất hiện ngay sau điều trị , collagen bị thoái hóa do nhiệt và nhân bắt màu nhạt. Xâm nhập tế bào viêm quanh mạch máu nhỏ (mũi tên trắng).

Tóm tắt mô học chính của nFP. (a) Loại bỏ sắc tố (mũi tên). (b) Tái tạo thượng bì tăng sinh collagen type III. (c) Sự quang đông của các mạch máu nhỏ.

VPS Er:YAG

Mức độ xâm lấn:

Mật độ năng lượng, fluence (F)

F = E/A

Thông thường từ 0,5 – 50 J/cm2

Độ sâu của xâm lấn phụ thuộc vào mật độ năng lượng và độ rộng xung.

Năng lượng dưới mức độ xâm lấn có phụ thuộc vào phần nhỏ là độ rộng xung và chủ yếu phụ thuộc vào mật độ năng lượng (1,6-2,2 J/cm2).

Ngưỡng xâm lấn phụ thuộc vào chủ yếu vào mật độ năng lượng và một phần nhỏ độ rộng xung. Độ sâu của xâm lấn tỷ lệ tuyến tính với mật độ năng lượng. Cũng lưu ý rằng ngưỡng xâm lấn và mức độ xâm lấn còn thuộc vào phân loại da, vị trí được điều trị, mức độ hydrat hóa của da và thời gian phát xung.

Độ sâu nhiệt (dT).

dT của mô sau khi chiếu Er: YAG phụ thuộc độ rộng xung.

Chiếu tia Er: YAG năng lượng 2J/cm2 với độ rộng xung 5,25,45, 65, và 85µsec cho thấy sự tăng lên của nhiệt độ (►T) khác nhau

Fractional xâm lấn

aFP: loại laser tạo ra những tổn thương nhỏ bóc tách từ thượng bì đến lớp bì, với mong muốn tạo được kết quả tái tạo da giống laser bóc tách cổ điển nhưng giảm thiểu tác dụng phụ.

Đặc điểm chung của các loại laser bóc tách là tia laser được hấp thu bởi nước, do đó gây ra phá hủy không chọn lọc.

Tạo ra vi kênh tổn thương nhỏ xen kẽ vùng da lành. Đường kính, độ sâu, mật độ vi kênh khác nhau tùy theo hệ thống laser. Tổn thương này cũng phụ thuộc vào mức độ quang đông mạch máu xảy ra xung quanh vùng bị bóc tách.

Cơ chế:

Phần thượng bì và bì bị bóc tách sẽ được thay thế bằng phần mô mới nhờ vào đáp ứng lành vết thương của da. Hiệu ứng nhiệt lan rộng từ MTZ tới bì nông và bì sâu. Các mảnh hoại tử MEND trong vi kênh bị đẩy dần ra và được thay thế bằng tế bào biểu mô mới, bề mặt da sẽ mịn màng hơn. Ở bên dưới, với nhiệt độ trên 50oC, cấu trúc ba chiều của collagen bị biến đổi làm cho sợi collagen bị rút ngắn đi, khoảng 1/3 và thoái hóa. Trong lớp bì sẽ dần dần thay thế bằng các sợi collagen mới trong 3-6 tháng sau đó, tạo hiệu quả săn chắc, xóa nếp nhân và cải thiện sẹo.

Có nhiều thiết bị aFL khác nhau về bước sóng, kích cỡ spot size, cách phát tia, độ sâu, quang đông (mức độ tổn thương do nhiệt).

Thường dùng là:

Laser CO2 (10600 nm),

Laser erbium: yttrium – aluminum – garnet (Er:YAG) (2940 nm), laser yttrium – scandium – gallium - garnet (YSGG) (2790 nm).

Laser CO2

• Những thiết bị có công nghệ CO2 laser sử dụng bước sóng 10600 nm khác biệt về độ sâu xâm lấn, sự quang đông và tay cầm điều trị.

• Laser CO2 fractional laser có hệ số hấp thu đối với nước là thấp nhất, do đó gây tổn thương xung quanh nhiều nhất.

• Tái tạo bề mặt da có liên quan đến quá trình tái tổ chức và gây ra ban đỏ kéo dài trong vài tháng.

• Tác dụng phụ lo ngại là giảm sắc tố vĩnh viễn ở những vùng điều trị nhiều lần. Laser Er:YAG

• Er:YAG laser 2940 nm hấp thu nước cao hơn 12 – 18 lần so với CO2 fractional laser.

• Đầu tiên, Er:YAG laser xung ngắn ra đời giúp bóc tách mô chính xác với vùng tổn thương nhiệt xung quanh thấp, dẫn đến tái tạo bề mặt da nhanh hơn.

• Tuy nhiên, Er:YAG laser làm tăng sự chảy máu trong lúc điều trị và cải thiện lâm sàng kém do làm giảm sự thắt chặt của các mô so với laser tái tạo bề mặt xung dài và CO2 fractional laser.

• Er:YAG laser xung dài ra đời nhằm tạo điều kiện cho việc cắt bỏ mô, cải thiện sự đông máu và tăng tái tạo collagen.

• Thiết bị này kết hợp chế độ quang đông có thể điều chỉnh liên tục, bao gồm ba cấp độ khác nhau được cung cấp bởi năng lượng xung dài để tạo hiệu ứng nhiệt quanh các MTZ.

• Ba mức độ quang đông tương ứng với 50, 100, 150 m vùng tổn thương nhiệt xung quanh các MTZ.

• Việc bổ sung chế độ xung dài có thể điều chỉnh này cho phép tạo ra đồng thời sự bóc tách và quang đông. Chính vì vậy, Er:YAG laser này có thể đạt được những cải thiện lâm sàng tương tự CO2 fractional laser, nhưng ít chảy máu và tái tạo collagen nhiều hơn.

Er:YSGG Laser

• Sau đó, YSGG laser ra đời, có bước sóng 2790 nm, có hệ số hấp thu nước lớn hơn CO2 10600 nm nhưng nhỏ hơn Er:YAG laser 2940 nm.

• Với hệ số hấp thu nước duy nhất, nó tạo ra một vùng quang đông cao hơn xung quanh mỗi vùng MTZ so với các Er: YAG laser xung ngắn, nhưng hẹp hơn so với CO2 frational laser.

• Như vậy, YSGG laser sẽ ít gây chảy máu và tái tạo collagen nhiều hơn so với Er:YAG xung ngắn nhưng lại ít tác dụng phụ (tăng giảm sắc tố, sẹo) so với CO2 fractional laser.

Mô học da do aFP ở các mức năng lượng khác nhau. Nhuộm màu HE. Các tổn thương được tạo ra trong vùng da bị bốc bay. Đường kính MTZ và độ sâu tăng theo năng lượng.

(a) 10 mJ, (b) 20 mJ, (c) 30 mJ, (d) 40 mJ, (e) 50 mJ, (f) 60 mJ, (g) 70 mJ.

Chữa lành vết thương do aFP tại các thời điểm khác nhau. Nhuộm HE. 20 mJ/MTZ. Phân tích mô học in-vivo tại các thời điểm khác cho thấy rằng tái biểu mô hóa đã diễn ra trong vòng 48 giờ sau khi điều trị. Màng đáy được phục hồi trong vòng 7 ngày và vùng quang đông có thể được quan sát đến khoảng 1 tháng sau khi làm thủ thuật. Lúc 3 tháng các tổn thương đã được giải quyết mà không có bằng chứng xơ hóa. (a) 0 ngày, (b) 2 ngày, (c) 7 ngày, (d) 30 ngày, (e) 90 ngày (Hantash et al.).

Ứng dụng của Er:YAG trong điều trị

Mức độ sâu xâm lấn là độ sâu tối thiểu đạt được kết quả điều trị. Dù điều trị xóa nhăn, các tổn thương da do ánh sáng, hoặc săn chắc lớp collagen. Tái tạo bề mặt được thưc hiện hoàn toàn khi tổn thương da được loại bỏ, hoặc đến khi có điểm xuất huyết điều này cho thấy đã tới lớp bì nhú. Ở lớp bì nhú hiệu quả điều trị tối ưu và ít có các tác dụng phụ. Tiếp tục điều trị sâu hơn xuống dưới bì nhú kết quả điều trị đạt được tối thiểu nhưng có nhiều các tác dụng phụ thậm chí tăng lên theo cấp số nhân.

Màu trắng của da sau khi sử dụng xung laser thường cho thấy điều trị bằng laser Er: YAG đã đạt đến mức độ biểu bì.

Màu vàng của da sau khi sử dụng xung laser thường cho thấy điều trị bằng laser Er: YAG đã đạt đến mức biểu bì sâu.

Chảy máu dấu chấm cho thấy rằng lớp bì nhú đã đạt được. Nói chung, điều này chỉ ra rằng điểm cuối lâm sàng đã đạt được trong các phương pháp điều trị tái tạo bề mặt bằng laser Er: YAG.

Điều trị với các thông số mạnh hơn thì mức độ xâm sâu hơn và hiệu quả điều trị cao hơn khi đó bệnh nhân cần thời gian gian nghỉ dưỡng lâu hơn và nguy cơ gây biến chứng cao hơn. Thời gian nghỉ dưỡng trung bình với mức độ xâm lấn lạnh, ấm và nóng tương ứng với 12 – 48 giờ, 12 – 72 giờ và 4 – 5 ngày. Thời gian nghỉ trung bình cho xâm lấn lạnh đến lớp bì nhú là 7 – 10 ngày.

Tái tạo bề mặt

Xóa nhăn quanh miệng

Bóc tách xanthelasma

Chế độ SMOOTH trong điều trị chảy xệ ở cánh tay

Bệnh nhân sau 3 tháng điều trị sẹo mụn bằng Fractinal Er:YAG Laser

Điều trị rạn da bằng VPS Er:YAG [6]

Tiến trình điều trị

Các chống chỉ định

Tuyệt đối

• Mong đội vượt quá thực tế.

• Không thể tuân thủ tốt chăm sóc sau điều trị.

• Sử dụng isotretinoin trong vòng 6 tháng trước đó. Tương đối.

• Cơ địa sẹo lồi.

• Tiền căn sẹo xấu hoặc chậm lành sẹo.

• Tiền căn xạ trị ở vùng chuẩn bị điều trị tái tạo da.

• Bệnh lý hệ thống ảnh hưởng đến da.

• Tiêm chích filler.

• Tiền căn bệnh da có hiện tượng knoebner.

• Có thai hoặc cho con bú.

• Không thể hoặc khó tuân thủ tránh nắng tốt sau khi điều trị.

Chuẩn bị bệnh nhân
Thời gian trước điều trị

• Tránh nắng: nên thực hiện ngay khi bệnh nhân quyết định điều trị.

• Thuốc thoa Tretinoin:

• Retinoid điều hòa sự sao chép gen và ảnh hưởng đến hoạt động tăng sinh và biệt hóa của tế bào. Thuốc có thể làm thay đổi các mạch máu và giảm phân phối của melanin trong lớp thượng bì.

• Do đó, retinoid có thể làm tăng tốc độ lành vết thương và giảm thay đổi sắc tố da. Được khuyên dùng ít nhất là 2 tuần trước khi thực hiện laser.

Tiến hành điều trị
Thời điểm điều trị:

• Kháng sinh dự phòng: Khi thực hiện điều trị trên diện rộng (toàn bộ mặt/cổ) nên sử dụng kháng sinh và kháng siêu vi, uống 1 ngày trước điều trị, duy trì 5 – 7 ngày.

• Giảm đau: tùy vào diện tích, mức độ xâm lấn và khả năng chịu đau.

• Chọn thuốc tê thoa tại chỗ kết hợp thuốc an thần, giảm đau (uống hay tiêm) hoặc gây mê đường tĩnh mạch.

• Làm sạch da trước điều trị: lau sạch thuốc tê và sát trùng da lại bằng cồn 70 độ.

• Bảo vệ mắt bệnh nhân bằng kính kim loại.

• Bật máy hút khói trong suốt quá trình làm (vì laser bóc tách sẽ tạo ra khói có chứa các phần tử bóc bay của da.

Săn sóc sau điều trị

- Chườm lạnh 4 – 6 giờ ngay sau điều trị giúp giảm sưng nề và giảm cảm giác nóng rát.

- Duy trì độ ẩm thích hợp cho da bằng thuốc thoa giữ ẩm cho đến khi da được tái tạo hoàn toàn.

- Hồng ban và sưng nề da sau laser hiện diện nhiều nhất trong 48 giờ, giảm dần trong 3 – 5 ngày, thường biến mất hoàn toàn sau 10 ngày.

- Nhiều điểm mày nhỏ được hình thành trên vùng da điều trị và bong tróc dần sau 1 – 2 tuần.

Tác dụng phụ

Laser bóc xâm lấn:

• Nhiễm Herpes simplex.

• Nhiễm trùng.

• Nhiễm Candida.

• Chậm lành vết thương: bóc tách quá sâu.

• Đỏ da kéo dài: hay gặp.

• Tăng hoặc giảm sắc tố: tăng hay gặp hơn.

• Mụn trứng cá: mụn li ti.

• Viêm da tiếp xúc: thuốc tê, chất làm ẩm.

• Tạo sẹo.

• Hình thành hạt kê: thoáng qua.

Các biến chứng của laser không bóc tách ít gặp hơn. Hai tác dụng phụ thường gặp là đỏ da kéo dài và tăng sắc tố sau điều trị.

Một số nghiên cứu về hiệu quả điều trị sẹo và rạn da bằng laser Er:YAG

Sẹo mụn

Nghiên cứu 1: Phối hợp Er:YAG xung ngắn và xung dài trong điều trị sẹo mụn.

Fỉooz và cộng sự nghiên cứu điều trị sẹo lõm do mụn cho 9 bệnh nhân có loại da 3- 4 theo Fitzpatrick (8 nữ và nam) từ 2 – 5 đợt điều trị, cách nhau 4 – 6 tuần kết quả hiệu quả rất tốt 1 bn, tốt 1 bn, và trung bình 7 bệnh nhân. Tác giả không chi nhận tác dụng phụ đáng kể nào.

Laser Er:YAG gây hiện tượng quang đông ít hơn so với laser CO2 tuy hiên vẫn đạt được hiệu quả điêug trị, và ít gây tổn thương PHI so với laser CO2.

Tất cả các bệnh nhân được điều trị bằng laser Er: YAG ỏ phân đoạn với bước sóng 2940nm.

1- Zoom mode: kích thước điểm 5 mm, năng lượng 1000-1500 mJ, 1-3 pass trên từng sẹo lõm.

2- Chế độ xung ngắn phân đoạn (350 mics): kích thước điểm 8x8 mm2 (bao gồm 81 MTZ), năng lượng 800-1500 mJ, 1-2 pass trên vùng điều trị.

3- Chế độ xung phân đoạn dài (1 ms) (chế độ quang đông): kích thước điểm 8x8 mm2 (bao gồm 81 MTZ), năng lượng 700-1000 mJ, 1 pass vào vùng điều trị.

Er: YAG phân đoạn an toàn và hiệu quả để điều trị sẹo mụn trên mặt ở bệnh nhân.

Fractional Er: YAG laser mang lại kết quả điều trị chấp nhận được và ít gây biến chứng

Hiệu quả của phối hợp Er:YAG xung ngắn và dài trong điều trị sẹo mụn.

Nghiên cứu 2: Phối hợp Er:YAG và Laser CO2 trong điều trị sẹo mụn.

Theo Baleg và trong những năm 1980 laser CO2 nhằm tái tạo bề mặt cải thiện nếp nhăn, thời gian hồi phục kéo dài tổn thương nhiệt cho mô xung quanh không kiểm soát được gây tăng sắc tố sau viêm.

Laser Er: YAG có nước hấp thu năng lượng hơn 10 – 16 lần cho phép bóc tách bề mạt tốt, kiểm soát được độ sâu vì vậy thời gian hồi phuc vết thương nhanh hơn cũng như giảm đỏ da, tuy nhiên tăng sinh colagen và co rút mô không hiệu quả bằng.

Laser bước sóng kép laser Er:YAG và laser CO2 sẽ tăng hiệu quả điều trị và nhằm hạn chế các tác dụng phụ.

Thử nghiệm trên 40 con chuột chia làm 4 nhóm

- Nhóm 1 và 2 laser kép Er: YAG 3,2 i/cmz 1,3,6,10 psss + laser CO2 16 J/cm2 1, pass trên cùng 1 vị trí.

- Nhóm chứng laser CO2 hoặc Er: YAG

Nồng độ của các sợi collagen trong các nhóm khác nhau vào những ngày khác nhau. Nhóm A cho thấy mẫu da điều trị với laser Er: YAG / CO2 sau một xung và A’, A‘’ nồng độ sợi collagen ở ngày thứ ba và sáu. Nhóm B cho thấy các mẫu da điều trị laser Er: YAG ở sáu xung + một xung của laser CO2. Nó cho thấy mật độ của các sợi collagen mới được thể hiện bằng màu xanh lục tăng lên trong các ngày từ 1 đến 3 và vào ngày 6. Nhóm C cho thấy các mẫu da điều trị với 10 xung laser Er: YAG với một xung của laser CO2. Nó cho thấy mật độ sợi collagen tăng lên vào ngày 1, 3 và 6.

Đồ thị 1: Thử nghiệm độ bền kéo của da chuột được thực hiện sau ba đợt điều trị bằng laser. Sức căng của da ở các vị trí chiếu xạ cho thấy sự gia tăng đáng kể lượng collagen mới.

Tác giả kết luận sự phối hợp 2 nguồn laser sự gia tăng rõ rệt độ đàn hồi của da, vì nhiều sợi collagen được tạo ra.

Rạn da

Wanitphakdeedecha và cs nghiên cứu điều trị rạn da bằng laser Er:YAG xung vuông biến đổi (VSP)

21 phụ nữ bị SD được điều 1 tháng/1lần trong 2 tháng tái tạo bề mặt bằng laser VSP Er: YAG bằng cách sử dụng kích thước điểm 7 mm. Một bên được xử lý ngẫu nhiên với năng lượng 400 mJ ở chế độ xung ngắn (SP) 0.3 ms với độ overlap 50% và một lần vượt qua 2.2 J / cm2 ở chế độ xung dài (SM) với chế độ không chồng lấp. Bên đối diện được xử lý với 2 pass 400 mJ ở chế độ SP với 50% trùng lặp. Đánh giá trước điều trị, 1, 3-và 6 tháng sau khi điều trị.

Cải thiện lâm sàng của SD lúc 6 tháng sau hai lần điều trị với (A) xung ngắn và chế độ xung dài (SP & SM) và (B). Bệnh nhân được đánh giá có cải thiện 51% -75% ở cả hai bên.

Đồ thị 2: Kết quả điều trị được đánh giá bởi bệnh nhân lúc 6 tháng sau hai lần điều trị Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ nhám của da (SER), độ mịn của da.

(SESM) và bề mặt. Tăng sắc tố sau viêm thoáng qua (PIH) là tác dụng phụ phổ biến được tìm thấy ở những bệnh nhân có màu da sẫm hơn ngay cả ở những vùng không tiếp xúc và có thể kéo dài tới 6 tháng.

aFP trong điều trị rạn da.

Laser xung nhuộm màu (PDL; 585nm) thường được sử dụng trong điều trị rạn da. Mới đây phương pháp quang nhiệt phân đoạn có hiệu quả để điều trị SD. Tác giả báo cáo về tác dụng của laser phân đoạn Erbium: YAG trong hai trường hợp SD nách so với PDL 585nm.

Bệnh nhân được điều trị 5 lần cách nhau 4 tuẩn. Erbium: tia laser fractional YAG vùng nách trái 72 J/cm2, mật độ 2 và 300 Hz. Tương ứng ở nách phải, các phương pháp điều trị được bắt đầu đồng thời ở bước sóng 585nm mật độ năng lượng 7,0 J/cm2 với thời gian phát xung là 1500 ms và kích thước điểm 7mm.

Trước khi bắt đầu điều trị bằng laser (A, B). Kết quả sau 5 đợt điều trị bằng Er: YAG bằng laser phân đoạn ở vùng nách trái (C) và điều trị PDL trên vùng tương ứng ở bên phải (D).

Laser phân đoạn 2940nm Er: YAG có có hiệu quả điều trị SD, đặc biệt cho những bệnh nhân mắc SD giai đoạn muộn.

Er:Glass 1540 nm trong điều trị rạn da

Angelis và cs nghiiên cứu trên 51 bệnh nhân rạn da trong thời gian từ một đến 40 năm. Ở nhiều vị trí bao gồm: ngực, hông và bụng. Điều trị laser 1540nm, với cài đặt năng lượng từ 35 đến 55 mJ / mb với đầu quang 10 mm hoặc 12 đến 14 mJ / mb với đầu quang 15 mm. 4- 6 tuần/1 lần trong 2 – 4 lần điều trị.

Kết quả: Cải thiện tình trạng rạn da trên 50% tất cả bệnh nhân sau sáu tháng hoặc lâu hơn sau lần điều trị cuối cùng. Trong tất cả các bệnh nhân được kiểm tra vào lúc 18 hoặc 24 tháng sau khi điều trị, không có sự tái phát. Tác dụng phụ điển hình bao gồm ban đỏ và phù thoáng qua. Một số ít bệnh nhân trải qua các trường hợp tăng sắc tố sau viêm nhiễm (PIH), tất cả đều chữa khỏi.

Tân sản collagen trong lớp hạ bì võng mạc do điều trị 1540nm. (A) Trước điều trị điều trị cho thấy một lớp biểu bì bị teo với các sợi collagen bị thoái hóa và bị phân mảnh. (B) Một tháng sau lần điều trị cuối cùng, sự hình thành các sợi colagen.

Tăng số lượng sợi đàn hồi sau điều trị. (A) Trước khi điều trị, các sợi đàn hồi (vết màu tím sẫm) ở lớp hạ bì xuất hiện bị phân mảnh và thưa thớt về số lượng. (B) Một tháng sau ba lần điều trị: tăng sinh collagen, các sợi đàn hồi

Nữ 40 tuổi rạn da ở bụng đã 12 năm có liên quan đến thai kỳ. Bệnh nhân này có loại da III. Sử dụng đầu tip 10 mm năng từ 45 đến 55 mJ / μb và độ rộng xung 15 ms. Cải thiện rõ rệt tình trạng giảm sắc tố, và kết trúc đã góp phần làm mềm và làm mịn làn da sau điều trị.

Nữ 30 tuổi rạn da ở ngực trên ngực do hậu quả của tuổi dậy thì sự phát triển. Bệnh nhân này có loại da Fitzpatrick III. (B) 4 tháng sau ba lần điều trị với đầu tip 10 mm, 40 mJ/µb và độ rộng xung 15 ms, sự đổi màu đỏ hồng của dải được xuất hiện giảm rõ rệt.

Kết luận: Er:Glass 1540 nm có hiêuh quả an toàn cho rạn da Fitzpatrick loại II đến IV.

Kết luận:

- Laser Er:YAG có hiệu quả trong điều trị sẹo và rạn da do tăng sinh collagen trong quá trình lành vết thương.

- Phối hợp giữa Er:YAG xung ngắn và xung dài trong điều trị để nâng cao hiệu quả điiều trị sẹo lõm.

- aFP được lựa chọn trong điều trị SD hơn so với aFP, aFP được khuyến cáo trong những trường hợp rạn da đã lâu.

Thông số kỹ thuật:

Loại Laser: ER:YAG tinh thể
Độ rộng xung: 300~350ns (2940nm)
Bước sóng: 2940nm
Chế độ vận hành: - Kích thước vi điểm: 0.5 ~ 7mm (Đầu phóng to)
- 0.5mm (Đầu tay khoan)
Năng lượng xung: Tối đa. 1000mJ (29404nm)
Tần số: 1, 2, 5, single, 10Hz
Làm lạnh: Nước+ không khí
Nguồn điện vào: 220 – 230VAC, 3KVA
Nguồn điện: 220V, một pha, 60Hz
Kích thước: 600mm × 850mm × 270mm [W*H*D]
Trọng lượng: 65kg

*Lưu ý: Hiệu quả/Công dụng có thể khác nhau tùy theo thể trạng/cơ địa mỗi người. Do đó, các bạn hãy liên hệ trực tiếp để được tư vấn rõ hơn.

Video Máy xóa nám, hình xăm Laser SHINE PEEL Hàn Quốc: